Ứng dụng nguyên tử tại Việt Nam
Sau thảm họa kinh hoàng tại Chernobyl, gần như không một nước nào trên thế giới muốn dựa vào kỹ thuật hạt nhân nữa, ngay chính các tập đoàn năng lượng cũng cho rằng điện nguyên tử không còn có tương lai. Không một nhà máy điện nguyên tử nào được xây dựng tại Bắc Mỹ và Tây Âu trong nhiều năm liền. Tuy nhiên, trước sức ép của biến đổi khí hậu và khủng hoảng năng lượng, một lần nữa, năng lượng nguyên tử lại lên ngôi.
Năng lượng nguyên tử là năng lượng sinh ra khi có sự phân hạch hạt nhân hoặc tổng hợp hạt nhân. Đây là một trong những dạng năng lượng lớn nhất của tự nhiên. 1g Uranium phân hạch có thể phát ra năng lượng tương đương với việc đốt 2.000 kg dầu hỏa hoặc 3 tấn than đá. Do có nhiều tính năng đặc biệt và hiệu suất cao như vậy nên nguồn năng lượng này được ứng dụng rất rộng rãi. Hiện nay, hai dạng chủ yếu của kỹ thuật hạt nhân sử dụng năng lượng nguyên tử là công nghệ bức xạ và điện hạt nhân.
Tại Việt Nam, công nghệ bức xạ được ứng dụng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống - kinh tế - xã hội, nó đã và đang mang lại những lợi ích thiết thực cho cuộc sống con người.
Trong lĩnh vực y tế và y học hạt nhân, hàng năm nước ta đã sản xuất được khoảng 150 - 200 Ci (50% nhu cầu) với hơn 20 loại đồng vị và dược chất phóng xạ tại lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, chủ yếu là các sản phẩm của I-131, P-32, Tc-99m, Cr-51, riêng Ir-192 và Co-60 dùng trong điều trị vẫn phải nhập khẩu hoàn toàn khoảng 1000 Ci/năm. Thời gian gần đây, các trung tâm cyclotron tại bệnh viện Chợ Rẫy, Viện Khoa học kỹ thuật hạt nhân và bệnh viện 108 cũng đã sản xuất được các đồng vị phóng xạ cho máy xạ hình cắt lớp PET và SPECT.
Hiện tại, trên cả nước có 25 cơ sở y học hạt nhân. Hàng năm có khoảng 500.000 người được chẩn đoán và 50.000 người được điều trị bằng y học hạt nhân, trong đó 20.000 bệnh nhân ung thư được điều trị băng kỹ thuật xạ trị. Công tác sàng lọc phát hiện sớm ung thư mới chỉ dừng ở mức thí điểm cho ung thư cổ tử cung, ung thư vú ở một số tỉnh thành. Bên cạnh đó, hệ thống khoa X-quang đã được hình thành từ trung ương đến các bệnh viện tuyến huyện. Tuy vậy, trang thiết bị phần lớn là cũ và thiếu, đặc biệt là máy X-quang can thiệp điều trị.
Trong lĩnh vực nông nghiệp và sinh học, 30 năm qua đã tạo ra 50 giống cây trồng bằng đột biến gen thuộc 5 loại là lúa, đậu tương, lạc, cà chua, hoa cúc và táo, trong đó lúa có 32 giống, đậu tương 10 giống. Việt Nam xếp hàng thứ 9 trên thế giới về chọn giống đột biến. Trong đó, giống VN-95-20 là 1 trong 5 giống xuất khẩu chủ lực, trồng trên 0,3 triệu ha/năm. Kỹ thuật đánh dấu đồng vị nghiên cứu tối ưu sử dụng nước và phân bón cũng đã được nghiên cứu thử nghiệm. Ngoài ra công nghệ bức xạ còn được ứng dụng trong nghiên cứu xói mòn đất và bồi lấp lòng hồ bằng kỹ thuật đo Cs-137, Be-7 và Pb-210; chế tạo một số chế phẩm kích thích tăng trưởng và bảo vệ thực vật.
Trong công nghiệp và các ngành kinh tế - kỹ thuật khác, rất nhiều ứng dụng của công nghệ bức xạ đã mang lại hiệu quả to lớn. Kỹ thuật chụp X-quang thông thường (NDT) dùng để kiểm tra, đánh giá các công trình, hệ thiết bị (đường ống, nồi hơi, tàu thuỷ…), kiểm tra hàng hoá, bảo đảm an ninh tại các cửa khẩu, sân bay. Hiện nay, việc sử dụng kỹ thuật này đã trở thành yêu cầu bắt buộc trong kiểm tra chất lượng một số loại công trình xây dựng và giao thông. Kỹ thuật điều khiển hạt nhân tự động được sử dụng trong việc điều khiển dây chuyền sản xuất để kiểm tra mức nước trong các nhà máy nước ngọt; đo độ dày trong các nhà máy nhựa, giấy, tôn…; đo phối liệu đầu vào trong các nhà máy xi măng, kính để đảm bảo chất lượng sản phẩm đầu ra. Kỹ thuật đo trong lỗ khoan sử dụng nguồn phóng xạ để nghiên cứu thạch học, độ rỗng, độ phóng xạ tự nhiên và dòng chảy phục vụ thăm dò khai thác dầu khí. Kỹ thuật đồng vị đánh dấu dùng để tối ưu hoá các quá trình công nghệ trong nhiều nhà máy và dây chuyền sản xuất. Gần đây kỹ thuật này đã được sử dụng hiệu quả trong lĩnh vực dầu khí để nâng cao hiệu suất thu hồi dầu.
Mặc dù năng lượng bức xạ đã được triển khai rộng rãi trên nhiều lĩnh vực nhưng trình độ và hiệu quả của nó vẫn còn thấp so với mặt bằng phát triển chung của thế giới, chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu thực tế trong nước.
Nhiều bệnh viện tỉnh không có máy chụp cắt lớp vi tính, máy siêu âm màu, máy cộng hưởng từ. Công tác đào tạo và chuẩn hoá cán bộ còn gặp nhiều khó khăn. Việc nội địa hoá các thiết bị và sản phẩm phục vụ cho thúc đẩy ứng dụng bức xạ trong y tế chưa có nhiều kết quả. Mới có một số sản phẩm và thiết bị được chuyển giao công nghệ vào Việt Nam như máy xạ trị áp sát, màng trị bỏng, thiết bị chẩn đoán và điều trị bằng công nghệ lazer và cộng hưởng từ. Công nghệ khử trùng dụng cụ và vật phẩm y tế bằng chiếu xạ chưa được ứng dụng.
Công nghệ bức xạ mặc dù trên thế giới chiếm đến 90% tỷ trọng về kinh tế của ứng dụng bức xạ, nhưng ở Việt Nam còn rất hạn chế. Cả nước mới chỉ có 4 cơ sở chiếu xạ công nghiệp. Công tác chế tạo thiết bị phục vụ triển khai ứng dụng bức xạ trong công nghiệp hầu như chưa có.
Nói đến năng lượng nguyên tử, chúng ta không thể không nhắc đến điện hạt nhân. Đây là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất và được ứng dụng nhiều nhất của năng lượng nguyên tử. Theo tính toán, sau 15 năm nữa, riêng nhu cầu về điện sẽ tăng gấp 10 lần hiện nay, nhu cầu về năng lượng sẽ tăng gấp 3 lần. Trước tình thế đó, sử dụng điện hạt nhân sẽ là giải pháp tối ưu trong tương lai gần. Đặc biệt, trong xu thế cả thế giới đang phải đối phó với hiểm họa biển đổi khí hậu toàn cầu, điện hạt nhân là sự lựa chọn thích hợp, góp phần tích cực thay thế các nhà máy nhiệt điện sử dụng nhiên liệu hoá thạch, nhằm giảm hạn chế phát thải khí ô nhiễm môi trường gây hiệu ứng nhà kính.
Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận là dự án điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam bao gồm Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 (Phước Dinh) và Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2 (Vĩnh Hải) với tổng công suất 4.000 MW (gần gấp đôi nhà máy thủy điện Sơn La). Cả 2 nhà máy đều sử dụng công nghệ lò nước nhẹ cải tiến, thế hệ lò từ thứ ba trở lên, đã được kiểm chứng, đảm bảo tuyệt đối an toàn và hiệu quả kinh tế tại thời điểm lập dự án. Tổng mức đầu tư của dự án khoảng 200.000 tỷ đồng (tại thời điểm lập dự án, quý 4/2008). Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua dự án này ngày 25 tháng 11 năm 2009. Sau khi Quốc hội thông qua, dự án đầu tư (nghiên cứu khả thi) sẽ được tiến hành trong 2 - 3 năm sắp tới và dự kiến khởi công vào khoảng 2014.
Việt Nam là một quốc gia có tài nguyên urani. Đó là điều kiện thuận lợi để phát triển điện hạt nhân. Tuy nhiên cần có các nghiên cứu kỹ lưỡng để xây dựng chính sách khai thác thương mại nguồn tài nguyên quý giá này.
Trong tương lai, nếu nhiều nước cùng phát triển điện hạt nhân, số lò tăng lên, giá uranium cũng có thể tăng cao và khủng hoảng uranium có thể còn trầm trọng hơn cả khủng hoảng xăng dầu. Nguyên liệu hạt nhân cũng luôn chịu sự giám sát của quốc tế, từ vận chuyển, nhập khẩu đến bảo quản, tái xuất... Vì vậy, chỉ cần một sơ suất nhỏ dẫn đến vi phạm quy định, một nhà máy điện hạt nhân có thể sẽ bị cấm cung cấp nhiên liệu và buộc phải dừng hoạt động.
Vấn đề được đặc biệt quan tâm trong chiến lược phát triển năng lượng hạt nhân chính là ảnh hưởng của nó đến sức khỏe của con người và môi trường sống xung quanh. Nguồn bức xạ có thể gây nhiều hiểm họa cho con người như tổn thương da, hoại tử, đột biến gen, ung thư, thậm chí gây chết người nếu không được quản lý giám sát chặt chẽ và có những biện pháp phòng, tránh, ứng phó sự cố bức xạ.
Dẫu biết rằng chúng ta phải đối mặt với nhiều khó khăn và nguy cơ nhưng Việt Nam vẫn có những thuận lợi và cơ hội đáng kể để phát triển năng lượng nguyên tử. Quốc hội và Chính phủ đã ban hành những văn bản pháp quy mang tầm vĩ mô và lâu dài, đảm bảo cho việc phát triển bền vững cho năng lượng nguyên tử trên lãnh thổ Việt Nam. Trong đó, Luật năng lượng nguyên tử đã được Quốc hội ban hành và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2009, tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và phát triển ngành năng lượng nguyên tử. Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 2006 và Kế họach tổng thể thực hiện Chiến lược năm 2007 đã xác định các phương hướng chủ đạo trong các hoạt động nghiên cứu, phát triển và ứng dụng năng lượng nguyên tử ở Việt Nam.
Tại Hội nghị “Ứng dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ phục vụ phát triển kinh tế xã hội” bên lề Techmart Quảng Ninh 2010, PGS.TS. Vương Hữu Tấn - Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đã nhấn mạnh: “Với sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, cùng sự quyết tâm cao của cộng đồng khoa học công nghệ hạt nhân và sự ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, Việt Nam nhất định sẽ thực hiện thành công Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình, đưa năng lượng nguyên tử phục vụ hiệu quả công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, chăm sóc sức khoẻ nhân dân và bảo vệ môi trường trong cả nước”.
Vì vậy, để thực hiện thành công Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử và góp phần xây dựng ngành năng lượng nguyên tử của đất nước đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu rất lớn của các cấp, các ngành và toàn xã hội, đặc biệt là đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ hạt nhân và đội ngũ cán bộ quản lý các cấp.
Đăng nhận xét